Nhanh chóng hoàn tất thủ tục xuất khẩu quả nhãn sang Nhật Bản
Nhật Bản luôn là một trong những thị trường nổi tiếng với những tiêu chuẩn khắt khe trong việc nhập khẩu các mặt hàng nông sản. Trong khi đó, người Việt Nam sinh sống, làm việc tại Nhật Bản ngày một nhiều, thị hiếu tiêu dùng của người dân Nhật Bản cũng ngày càng đổi mới. Các mặt hàng thực phẩm nguồn gốc Việt Nam ngày càng được ưa chuộng và được đánh giá có nhiều tiềm năng để thâm nhập và có chỗ đứng tại thị trường Nhật Bản.
Để vào được thị trường khó tính này là cả một quá trình nỗ lực từ nhiều phía. Một trong những tín hiệu tích cực cho nông sản Việt Nam là tháng 12/2019, Chính phủ Nhật Bản đã phê duyệt cho phép nhập khẩu chính thức quả vải thiều tươi của Việt Nam. Đến nay, với nhiều nỗ lực, quả vải thiều tươi của Việt Nam đã tạo được tiếng vang tại thị trường Nhật Bản, không chỉ cộng đồng người Việt sống tại Nhật Bản đón nhận, mà còn thu hút sự quan tâm, yêu thích của chính người dân Nhật Bản. Như vậy, hiện Việt Nam đã xuất khẩu 3 loại trái cây tươi vào thị trường này là thanh long, xoài Cát Chu và vải.
“Có thể kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản không phải cao ở mức lý tưởng, nhưng khi hàng hóa của mình được phía Nhật chấp thuận, nghĩa là mình đã vượt qua được bài kiểm tra rất khó. Việc có thể xuất khẩu thành công vào thị trường này sẽ giúp mở thêm những cánh cửa xuất khẩu mới sang các nước phát triển khác. Mặt khác, cũng giúp các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam hạn chế sự phụ thuộc vào một thị trường nào đó. Chính vì thế, đầu tư, chi phí, công sức bỏ ra đối với thị trường Nhật rất lớn, nhưng chúng tôi rất quyết tâm để có thể chứng tỏ được thương hiệu nông sản của Việt Nam”, bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT) cho hay.
Ngoài 3 loại trái cây đã được xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản, hiện nay, Cục BVTV cũng đang triển khai các thủ tục đàm phán để mở cửa thêm cho quả nhãn của Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường này.
Bà Nguyễn Thị Thu Hương cho biết, Nhật Bản là một trong những thị trường có tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm khắt khe nhất thế giới. Vì vậy, phải ứng dụng công nghệ bảo quản tốt để có thể duy trì độ tươi ngon của các loại trái cây nói chung, trong đó có quả nhãn trong thời gian vận chuyển, đến tay người tiêu dùng Nhật Bản với chi phí hợp lý. Có như vậy, quả nhãn Việt Nam mới có thể cạnh tranh và có chỗ đứng tại thị trường Nhật Bản.
Theo bà Hương, thời gian qua Việt Nam đã đàm phán với phía Nhật Bản để mở cửa thị trường cho quả nhãn. Tuy nhiên, để có thể xuất khẩu được loại quả này sang Nhật, cần nhiều công đoạn công phu, đòi hỏi từng chi tiết nhỏ phải chuẩn xác theo tiêu chuẩn mà phía Nhật yêu cầu.
Hiện, có nhiều biện pháp xử lý trái cây xuất khẩu khác nhau như xử lý bằng hơi nước nóng, xử lý xông hơi khử trùng bằng Methyl Bromide, xử lý chiếu xạ, xử lý lạnh…, tuy nhiên phải căn cứ trên từng loại quả và thị trường khác nhau để cân nhắc lựa chọn phương pháp phù hợp với quy định của nước nhập khẩu và tính khả thi về mặt kỹ thuật.
Năm 2020, Cục BVTV (Bộ NN-PTNT) đề xuất áp dụng phương pháp xử lý lạnh cho quả nhãn (tất cả các giống nhãn) và được Bộ Nông – Lâm – Ngư nghiệp Nhật Bản (MAFF) chấp nhận. Phía Nhật Bản và Việt Nam đã dành nhiều tháng để xây dựng kế hoạch thực hiện thí nghiệm áp dụng phương pháp này.
Theo đó, quá trình thí nghiệm gồm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn đều phải lặp lại 3 lần. Riêng giai đoạn thí nghiệm cuối cùng mỗi lần lặp lại phải cấy trên 20.000 cá thể ruồi vào 1.500 quả nhãn để kiểm chứng hiệu quả của nhiệt độ xử lý và thời gian xử lý đã được xác nhận từ các giai đoạn trước của thí nghiệm trên quy mô lớn, tương tự như quy mô xử lý thương mại.
Từng giai đoạn thí nghiệm sẽ phải gửi lại báo cáo cho phía Nhật xem xét, nếu đạt yêu cầu và được phía Nhật chấp thuận thì mới chuyển sang bước tiếp theo. Ở bước cuối cùng là giai đoạn 4 thí nghiệm trên diện rộng, chuyên gia Nhật sẽ sang và giám sát toàn bộ quy trình nuôi cấy sâu, trực tiếp lấy quả nhãn đã xử lý xác nhận hiệu quả tiêu diệt hoàn toàn ruồi đục quả của biện pháp xử lý lạnh.
Bước tiếp theo, hai bên thống nhất với nhau về điều kiện nhập khẩu để phía Nhật lấy ý kiến các bên liên quan (trong vòng 90 ngày) trước khi chính thức công bố điều kiện nhập khẩu. Sau đó, sẽ có bước kiểm tra thực địa, kiểm tra các cơ sở đóng gói, xử lý, vùng trồng, kiểm tra các quy trình kiểm dịch… để chính thức xuất khẩu.
Bà Hương cho biết thêm, theo quy định, phía Nhật Bản sẽ cử cán bộ kiểm dịch sang Việt Nam, ở lại Việt Nam giám sát từng lô hàng xuất khẩu.
Hiện quá trình thí nghiệm phương pháp xử lý lạnh quả nhãn đang ở giai đoạn cuối cùng, phía Bộ Nông nghiệp Nhật Bản cũng đã cử 2 chuyên gia Nhật sang giám sát thí nghiệm lần cuối và hệ thống quản lý của Việt Nam từ ngày ngày 8/6. Trong thời gian ở Việt Nam, chuyên gia Nhật sẽ có 7 ngày để kiểm tra kết quả các bước trong kế hoạch thí nghiệm và các vùng trồng, cơ sơ xử lý, đóng gói.
Chia sẻ về quá trình thực hiện thí nghiệm phương pháp xử lý lạnh đối với quả nhãn, bà Hương cho biết, đây là lần đầu tiên Việt Nam sử dụng biện pháp xử lý lạnh đối với mặt hàng trái cây xuất khẩu, chưa có nhiều kinh nghiệm, vừa làm vừa thảo luận với phía Nhật liên tục, vừa xin hướng dẫn, tham khảo tài liệu… mất rất nhiều thời gian và công sức.
Theo Phó Cục trưởng Cục BVTV, lợi thế của phương pháp xử lý lạnh là trang thiết bị đầu tư không quá đắt đỏ, các doanh nghiệp có mong muốn tham gia xuất khẩu đều có sẵn kho lạnh. Ngoài ra, xử lý lạnh có thể thực hiện trong quá trình vận chuyển, sẽ là một lợi thế giúp tiết kiệm được thời gian, chi phí cho doanh nghiệp. Mặt khác, xử lý lạnh không có nguy cơ về vấn đề dư lượng do không sử dụng hóa chất.
Bên cạnh các yêu cầu về xử lý kiểm dịch thực vật, quả nhãn Việt Nam để được xuất khẩu sang Nhật sẽ phải được quản lý chặt chẽ về vùng trồng và đăng ký với Cục BVTV để cấp mã số vùng trồng. Trong đó, điều kiện vùng trồng được cấp mã số là áp dụng các biện pháp quản lý sinh vật gây hại trên vùng trồng, hạn chế thấp nhất ruồi đục quả, sâu đục cuống hay sinh vật gây hại khác ở trên quả.
Vùng trồng phải có biện pháp giám sát dư lượng thuốc BVTV trên nhãn, có ghi chép nhật ký đồng ruộng, khuyến khích áp dụng GAP trong quá trình sản xuất. Ngoài ra, vùng trồng áp dụng các biện pháp vệ sinh đồng ruộng, thu gom bao bì, thuốc BVTV sau khi sử dụng, đảm bảo hệ sinh thái vùng trồng.
“Vùng trồng sẽ được giám sát hàng năm bởi Chi cục BVTV các tỉnh để đánh giá việc có duy trì đủ các điều kiện cần thiết hay không. Quan trọng nhất là nông dân phải được phổ biến các quy định của Nhật cũng như các biện pháp phòng ngừa sinh vật gây hại, đảm bảo thời gian cách ly, thuốc BVTV sử dụng trên cây nhãn”, bà Nguyễn Thị Thu Hương thông tin.
Nguyễn Thủy – Thanh Sơn
Bình Luận